Trần Phúc Duyên (1923 – 1993) là một trong những họa sĩ tài năng và có ảnh hưởng lớn trong nền nghệ thuật Việt Nam. Ông là một trong những danh họa sơn mài quan trọng nhất tốt nghiệp từ Trường Mỹ thuật Đông Dương và cũng là người đầu tiên khéo léo hòa quyện cả hội họa hàn lâm của Tây phương và lối vẽ thủy mặc văn nhân họa của Đông phương, đem bày lên mặt tranh sơn mài Việt.
Contents
Tiểu Sử Cuộc Đời Hoạ Sĩ Trần Phúc Duyên
Trần Phúc Duyên, sinh vào ngày 16 tháng 02 năm 1923 tại Hà Nội, là con của cụ Trần Diễn Giệm và bà Nguyễn Thị Thược. Ông quê ở làng Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Tây, và quê ngoại ở làng Bạch Mai, Hà Nội.
Gia đình ông được coi là tầng lớp giàu có cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Bố ông được gửi sang Pháp để học từ khi còn nhỏ, và sau khi trở về Việt Nam, ông thành lập xưởng đồ gỗ Phúc Mỹ tại số 1 phố Dieulefils (nay là phố Đặng Dung). Xưởng Phúc Mỹ nhanh chóng trở thành một trong những nhà làm mộc và đồ nội thất nổi tiếng tại Hà Nội vào những năm đầu của thế kỷ 20. Xưởng được chọn để thi công toàn bộ phần trần cho gian trưng bày đồ sơn mài tại Đấu xảo quốc tế năm 1931. Cụ Giệm cũng là một trong những thành viên sáng lập của Hội An Nam Chấn hưng Mỹ thuật và Kỹ nghệ (La Société Annamite d’Encouragement à l’Art et à l’Industrie, viết tắt là S.A.D.E.A.I.) dưới sự lãnh đạo của Victor Tardieu.
Năm 1941, Trần Phúc Duyên theo học lớp dự bị của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, được giảng dạy bởi hai danh họa Nam Sơn và Tô Ngọc Vân. Một năm sau, ông thi đỗ vào khoa Sơn Mài, Khóa XVI cùng với các tên tuổi nổi tiếng như Quang Phòng, Đinh Minh, Cao Xuân Hùng, Lê Phả, Nguyễn Văn Thanh, Phan Thông và Võ Lăng. Khóa học của ông không thể hoàn thành chương trình 5 năm vì trường phải đóng cửa vào năm 1945 sau ngày Nhật đảo chính Pháp. Tuy nhiên, những kiến thức thu thập được từ đây đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nghệ thuật của Trần Phúc Duyên sau này.
Từ năm 1948 đến 1954, Trần Phúc Duyên sinh sống và sáng tác tại Hà Nội. Xưởng vẽ của ông đặt tại số 146 Avenue de Grand Buddha, nay là đường Quan Thánh. Theo ghi chép cá nhân, ông nhận được nhiều đơn đặt hàng từ các gia đình tư sản, giám đốc công ty nước ngoài, quan chức, tướng lĩnh Pháp và thành viên chính phủ Bảo Đại.
Năm 1950, 3 tác phẩm sơn mài của ông, bao gồm bức bình phong 6 tấm vẽ phong cảnh Sài Sơn và Chùa Thầy, được chọn làm quà mừng Giáo Hoàng Pius và lưu giữ tại bảo tàng Vatican. Tháng 01/1952, ông tổ chức triển lãm cá nhân đầu tiên tại Sài Gòn với 30 tác phẩm sơn mài, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp.
Cuối năm 1954, Trần Phúc Duyên cùng hai anh em di cư sang Pháp. Tại đây, ông tiếp tục theo đuổi đam mê hội họa, tham gia thực hành tại xưởng của Jean Souverbie và Trường Mỹ thuật Paris. Để kiếm sống, ông vẽ tranh sơn dầu. Tuy gặp nhiều khó khăn trong việc tìm nguyên liệu và điều kiện khí hậu phù hợp cho sơn mài, ông vẫn giữ niềm đam mê với loại hình nghệ thuật này. Triển lãm năm 1961 tại Nice với 20 tranh sơn mài và 20 tranh lụa đánh dấu sự trở lại của ông với hội họa tại Pháp.
Trước khi chuyển sang Thụy Sĩ năm 1968, Trần Phúc Duyên đã tổ chức thành công 8 triển lãm cá nhân tại Tây Ban Nha, Pháp và Thụy Sĩ. Từ năm 1969 đến 1993, ông tiếp tục có thêm 13 triển lãm cá nhân, bao gồm các địa điểm như Pháp (1970), Canada (1975) và nhiều triển lãm tại Thụy Sĩ. Nổi bật là triển lãm năm 1983, nơi ông xuất bản cuốn sách đầu tiên và duy nhất về tranh sơn mài của mình.
Những năm cuối đời, Trần Phúc Duyên dành thời gian cho việc tu thiền. Chất thiền thấm vào các tác phẩm của ông, thể hiện qua những khoảng trống vô thường, sự yên bình tĩnh lặng và cảm giác an nhiên, thư thái. Ông qua đời vào ngày 9 tháng 9 năm 1993, hưởng thọ 70 tuổi và để lại một di sản nghệ thuật đồ sộ.
Sự Nghiệp Của Hoạ Sĩ Trần Phúc Duyên
Sự nghiệp sáng tác của Trần Phúc Duyên được chia thành ba giai đoạn chính: sơn mài đồng nhất, sơn mài sáng và sơn mài thủy mặc.
1945 – 1954: Sơn Mài Đồng Nhất
Từ 1945 đến 1954, Trần Phúc Duyên tập trung vào kỹ thuật sơn mài truyền thống, tạo nên những tác phẩm với màu sắc đồng nhất, chủ đề chủ yếu là phong cảnh quê hương và đời sống sinh hoạt bình dị. Gam màu chủ đạo trong giai đoạn này là đỏ (son), vàng, cánh gián và đen, điểm xuyết bởi sự táo bạo khi sử dụng màu xanh lục.
Năm 1952, họa sĩ đã tổ chức triển lãm cá nhân đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam ở Nhà Hát Thành Đô (Nhà hát Lớn) Sài Gòn. Các tác phẩm của ông đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ công chúng và giới phê bình.
Ngoài sơn mài, Trần Phúc Duyên còn sáng tác trên các chất liệu khác như in khắc gỗ với bức vẽ Văn Miếu (1946) hay sơn dầu với tác phẩm Chân dung phụ nữ ngồi (1951) – hiện đang treo tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Thời kỳ này, ông có hai kiểu chữ ký: một là ba chữ Hán xếp theo chiều dọc bên trên chữ Duyên, và hai là một chữ Duyên. Thường các tác phẩm sẽ được đề năm sáng tác.
1954 Đến Cuối Những Năm 1970: Sơn Mài Sáng
Di cư sang Pháp, Trần Phúc Duyên tiếp tục sáng tác sơn mài với nhiều đổi mới. Người họa sĩ tài năng sử dụng màu sắc tươi sáng hơn, kết hợp vàng, bạc, đồng tạo hiệu ứng độc đáo. Các tác phẩm giai đoạn này thể hiện nhiều chủ đề đa dạng, bao gồm cả ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây.
Ông vẽ nhiều tranh phong cảnh đồng bằng Bắc Bộ lấy cảm hứng từ Hà Tây, vùng trung du, các danh lam thắng cảnh Việt Nam và hình ảnh thiếu nữ trong tà áo dài. Tất cả đều được vẽ từ ký ức về quê hương xa cách.
Các tác phẩm nổi bật trong thời kì này phải kể đến đó là bức “Phong cảnh mạn ngược” với tông vàng nhẹ thể hiện làng quê Trung du thanh bình ẩn trong sương. Bức “Về chợ” với khung cảnh Chùa Mía trang nghiêm với hoạt động thường nhật của làng quê. Ngoài màu đỏ, đen, vàng, bạc cơ bản, ông còn sử dụng màu xám trầm mặc trong bức “Vịnh Hạ Long” thể hiện nỗi hoài niệm nhớ quê hương.
Tuy vẽ ít tranh lụa, Trần Phúc Duyên vẫn thể hiện sự đa dạng trong chủ đề. Ông vẽ phong cảnh với lối vẽ truyền thống như “Phong cảnh Trung du”, vẽ tre, cau – biểu tượng làng quê Việt Nam.
Với tranh thiếu nữ, ông sử dụng lụa bồi sẵn, mảng màu dày và bút pháp tương tự sơn dầu. Các cô gái trong tà áo dài, cùng đàn tranh, nón lá, quạt giấy hay tranh dân gian Việt Nam làm nền tạo nên nét độc đáo. Hay bức tranh “Tình mẫu tử” thể hiện nỗi buồn thời cuộc, nỗi nhớ quê da diết của các họa sĩ Việt Nam tại Pháp qua hình ảnh thiếu phụ bồng con với ánh mắt đượm buồn.
Từ Cuối Những Năm 1970 Đến Năm 1993: Sơn Mài Thủy Mặc
Trong 20 năm cuối của sự nghiệp, họa sĩ Trần Phúc Duyên đã kết hợp kỹ thuật sơn mài cùng phong cách thủy mặc, thử nghiệm với những hình ảnh trừu tượng. Trở về với đạo Phật và thiền định, tâm hồn ông được gột rửa, thể hiện qua những khoảng trống gợi cảm giác về cõi vô thường. Lối ký tên tối giản được ông sử dụng với ba chữ TPD hoặc đơn giản là chữ DUYEN. Các bức tranh khổ nhỏ với màu đơn sắc, thể hiện nét chấm phá của một nghệ sĩ tài ba.
Hình ảnh trăng xuất hiện thường xuyên trong tranh của ông trong thời kì này. Trăng là người bạn tri kỷ, mang ánh sáng soi đường cho con người trong đêm tối. Trần Phúc Duyên, sống một mình nơi đất khách, dường như tìm thấy tri kỉ trong ánh trăng. Trăng giúp ông đi qua những đêm dài, gặp lại quê hương, những khóm tre, dòng sông ẩn hiện dưới trăng khuya.
Hai tác phẩm “Sự im lặng của đêm” và “Trăng đêm” thu gọn không gian mênh mông vào tầm mắt, đưa tâm trí người xem đến những miền đất yêu thương. Nỗi cô đơn len lỏi trong tranh nhưng đồng thời lại toát lên sự an lành, tĩnh tại của một con người đã đi đến gần cuối con đường.
Tác Phẩm Tranh Nổi Bật Của Hoạ Sĩ Trần Phúc Duyên
Di sản nghệ thuật của cố họa sĩ Trần Phúc Duyên là một phần quan trọng trong nền nghệ thuật Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật nước nhà. Hơn 20 năm kể từ khi nằm lặng lẽ trên căn gác xép của lâu đài Jegenstorf ở ngoại ô thủ đô Bern, Thụy Sĩ, di sản khoảng 300 tác phẩm, hiện vật, tài liệu, sổ sách của họa sĩ Trần Phúc Duyên cuối cùng đã trở về Việt Nam.
Trong kho tàng các tác phẩm nghệ thuật đồ sộ của họa sĩ Trần Phúc Duyên, nổi bật phải kể đến các tác phẩm như:
Trần Phúc Duyên, “Phong cảnh mạn ngược”
TRẦN PHÚC DUYÊN – Về chợ. Sơn mài, 65×110 mỗi tấm – Tổng 65x220cm). Triển lãm tại Barcelona năm 1964. Sưu tập tư nhân
TRẦN PHÚC DUYÊN – Văn Miếu. 1946. In khắc gỗ và màu nước. 30x45cm
…..