Nguyễn Tường Tam – Tiểu Sử Cuộc Đời, Con Đường Nghệ Thuật & Các Tác Phẩm Tiêu Biểu

Chân dung Nguyễn Tường Tam

Nguyễn Tường Tam (chữ Hán: 阮祥三 hay 阮祥叄; 1906 – 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với nhiều bút danh như Nhất Linh (一灵), Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng Du, Tân Việt, và Đông Sơn (khi vẽ). Ông cũng là một chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20.

Nhất Linh là người sáng lập Tự Lực văn đoàn và là cây bút chính của nhóm. Ông từng giữ chức Chủ bút của hai tờ tuần báo nổi tiếng Phong Hóa và Ngày Nay. Sau này, ông còn thành lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng giữ vai trò Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng. Ngoài ra, ông còn đảm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.

Tiểu Sử Cuộc Đời Của Hoạ Sĩ Nguyễn Tường Tam

Tiểu sử hoạ sĩ Nguyễn Tường Tam

Hoàn Cảnh Xuất Thân

Nguyễn Tường Tam sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nhưng quê gốc của ông là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông nội của ông, Nguyễn Tường Tiếp, từng là tri huyện Cẩm Giàng và được gọi là Huyện Giám. Sau khi về hưu, cụ định cư tại đây. Ông Tiếp có một người con trai duy nhất là Nguyễn Tường Chiếu, thường được gọi là Thông Nhu hoặc Phán Nhu vì ông làm Thông phán. Nguyễn Tường Chiếu qua đời vào năm 1918 khi mới 37 tuổi. Ông để lại vợ, bà Lê Thị Sâm, và bảy người con, gồm sáu con trai và một con gái.

Gia đình Nguyễn Tường Tam sống ở huyện nhỏ Cẩm Giàng. Khi cha ông mất sớm, gia đình rơi vào cảnh khó khăn. Từ nhỏ, anh em Nguyễn Tường Tam đã sống trong môi trường nghèo khó, thường xuyên tiếp xúc với những người nông dân khổ cực. Những trải nghiệm này sau này đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học của Nhất Linh và Thạch Lam.

Thời Niên Thiếu

Nguyễn Tường Tam học tiểu học tại vùng quê Cẩm Giàng của mình và tiếp tục học trung học tại trường Bưởi, Hà Nội. Năm 16 tuổi, ông bắt đầu làm thơ và đăng trên báo Trung Bắc Tân Văn. Đến năm 18 tuổi, ông đã có bài viết “Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều” được đăng trên Nam Phong tạp chí.

Cuối năm 1923, Nguyễn Tường Tam đậu bằng Cao tiểu nhưng do chưa đủ tuổi vào trường cao đẳng, ông làm thư ký tại Sở Tài chính Hà Nội. Trong thời gian này, ông kết bạn với Tú Mỡ và viết cho tờ Nho Phong. Đồng thời, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên.

Năm 1924, ông tiếp tục học ngành Y và Mỹ thuật nhưng chỉ theo học một năm rồi bỏ dở. Đến năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam gặp gỡ Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di để cùng làm báo. Tuy nhiên, do tham dự đám tang Phan Chu Trinh, Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Campuchia, sống bằng nghề vẽ và tìm cách đi du học.

Năm 1927, ông sang Pháp du học. Tại đây, ông vừa học khoa học, vừa nghiên cứu về nghề báo và xuất bản. Đến năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa) và trở về nước trong năm đó. Thời gian du học tại Pháp đã giúp ông tích lũy nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu, góp phần quan trọng trong sự nghiệp sau này của ông.

Đời Sống Riêng Tư

Gia đình của Nguyễn Tường Tam

Vợ của Nguyễn Tường Tam, bà Phạm Thị Nguyên (1909-1981), xuất thân từ làng Phượng Dực, Thường Tín, tỉnh Hà Đông (hiện nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Mặc dù được giáo dục theo phong cách Tây phương, cuộc hôn nhân giữa họ vẫn do cha mẹ Nguyễn Tường Tam sắp xếp. Trước năm 1945, bà Nguyên là chủ hiệu buôn cau khô nổi tiếng tại Hà Nội với tên Cẩm Lợi, tọa lạc tại số 15 phố Hàng Bè. Bà qua đời tại Pháp vào ngày 6 tháng 5 năm 1981.

Nguyễn Tường Tam và Phạm Thị Nguyên có bảy người con, gồm năm con trai là Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Tường Thái, và hai con gái là Nguyễn Kim Thư và Nguyễn Kim Thoa.

Con Đường Nghệ Thuật

Con đường nghệ thuật của Nguyễn Tường Tam

Sau khi trở về nước, Nguyễn Tường Tam nỗ lực xin ra tờ báo trào phúng mang tên “Tiếng Cười”, nhưng liên tục nhận được câu trả lời “chờ xét” từ Sở Báo chí của Phủ Thống sứ. Trong thời gian chờ đợi, ông đã dạy học tại trường Tư thục Thăng Long và ông đã kết thân với thầy giáo dạy Việt văn Trần Khánh Giư ( Khái Hưng ).

Năm 1932, Nguyễn Tường Tam mua lại tờ tuần báo Phong Hóa từ Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, trở thành Giám đốc từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932. Ông chủ trương sử dụng tiếng cười trào phúng để đả kích các hủ tục phong kiến, hô hào ” u hóa” và đề cao chủ nghĩa cá nhân. Cùng năm đó, ông và các cộng sự quyết định thành lập Tự Lực văn đoàn dựa trên nguyên tắc “dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà”. Tổ chức ban đầu không quá 10 người để tránh phải xin phép Nhà nước và chỉ nêu mục đích tôn chỉ trong nội bộ, các thành viên tự nguyện tuân theo. Tự Lực văn đoàn chính thức tuyên bố thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1934, trên báo Phong Hóa số 87.

Tháng 6 năm 1935, báo Phong Hóa bị nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa ba tháng do loạt bài “Đi xem mũ cánh chuồn” châm biếm Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu. Sau khi hoạt động trở lại hơn một năm, báo bị đóng cửa vĩnh viễn vào số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936, cũng vì tội “chế nhạo”.

Tháng 12 năm 1936, Nguyễn Tường Tam cùng nhóm Tự Lực văn đoàn phát động phong trào “Ánh Sáng” – một tổ chức từ thiện với mục đích cải thiện nếp sống ở thôn quê, bao gồm cả việc xây dựng nhà hợp vệ sinh cho dân nghèo.

Sự Nghiệp Chính Trị

Sự nghiệp chính trị của Nguyễn Tường Tam

Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập Đảng Hưng Việt, sau này đổi tên thành Đại Việt Dân chính Đảng vào năm 1939, và ông giữ chức Tổng Thư ký. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực dần trở nên công khai.

Năm 1940, Hoàng Đạo, Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp bắt và đày lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả. Đến tháng 9 năm đó, báo Ngày Nay bị đóng cửa sau khi ra số 224.

Năm 1942, Nguyễn Tường Tam chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam qua đời tại Hà Nội vì bệnh lao, và Đại Việt Dân chính Đảng gần như tan rã. Trong thời gian từ 1942 đến 1944, ông học thêm Tiếng Anh và Tiếng Hán.

Tại Quảng Châu và Liễu Châu, ông gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ Chí Minh, người mới được thả ra từ tù. Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng tại Liễu Châu, và được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh để Trương Phát Khuê thả ra. Ông tham gia hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng, tá túc với Vũ Hồng Khanh. Tháng 3 năm 1944, Nguyễn Tường Tam được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội.

Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang cùng quân đội, nhưng sau đó lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này được phản ánh trong tiểu thuyết “Giòng sông Thanh Thủy”. Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc, báo Ngày Nay, dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách, lại tục bản với khổ nhỏ vào ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh, Đại Việt Dân chính đảng sáp nhập với Việt Nam Quốc dân đảng, đồng thời Việt Nam Quốc dân Đảng liên minh với Đại Việt Quốc dân Đảng. Nguyễn Tường Tam giữ chức Bí thư Trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng. Cuối năm 1945, Đại Việt Quốc dân Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng.

Đầu năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, sau khi đàm phán với chính phủ, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Ông cũng được tham gia Quốc hội khóa I đặc cách không qua bầu cử.

Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn Việt Nam dự Hội nghị trù bị Đà Lạt để đàm phán với Pháp, nhưng thực tế Võ Nguyên Giáp mới là người lãnh đạo phái đoàn. Tuy nhiên, theo sử gia David G. Marr, Tam là người phát ngôn có năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật đàm phán trong đoàn. Ông được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng cáo bệnh không đi và rời bỏ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, lưu vong sang Trung Quốc vào tháng 5 năm 1946, ở lại Hồng Kông cho đến năm 1951.

Sau đó, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu, khi lực lượng công an khám xét các cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng, bắt giữ nhiều đảng viên và tịch thu được nhiều vũ khí, truyền đơn khẩu hiệu chống chính quyền. Khi Nguyễn Tường Tam rời bỏ chính phủ, chính phủ tuyên bố ông đào nhiệm và biển thủ công quỹ, tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp đàm phán. Tuy nhiên, theo sử gia David G. Marr, việc biển thủ công quỹ này khó xảy ra, vì ông khó lòng được giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn.

Năm 1947, Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần và Lưu Đức Trung thành lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp, ủng hộ giải pháp Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam, chống cả Việt Minh lẫn Pháp, nhưng đến năm 1950 thì mặt trận này giải thể.

Năm 1951, ông từ Hồng Kông về nước, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực văn đoàn và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt. Tuy nhiên, trong Quốc dân Đảng vẫn tồn tại phái Nguyễn Tường Tam, cạnh tranh với hai phái khác.

Năm 1958, ông rời Đà Lạt về Sài Gòn, mở giai phẩm Văn hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Năm 1960, ông thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.

Sự nghiệp chính trị của Nguyễn Tường Tam

Ngày 8 tháng 7 năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm gọi ông ra xử. Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc tự tử để phản đối chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm. Ông để lại lời cuối cùng:

“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do.”

Các Tác Phẩm Tiêu Biểu

Hoa Phong Lan - Nguyễn Tường Tam

Hoa Phong Lan – Nguyễn Tường Tam

Cúc Xưa - Nguyễn Tường Tam

Cúc Xưa – Nguyễn Tường Tam

Cảnh phố Chợ Đông Dương - Nguyễn Tường Tam

Cảnh phố Chợ Đông Dương – Nguyễn Tường Tam