Làng Tranh Đông Hồ Việt Nam – Những Điều Có Thể Bạn Chưa Biết

Làng tranh đông hồ Việt Nam

Làng Tranh Đông Hồ Ở Đâu ?

Làng tranh Đông Hồ, còn gọi là làng Hồ hay làng Mái, là một làng nghề cổ truyền nằm ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Cách Hà Nội khoảng 33 km về phía Đông, làng nằm sát bờ Nam của đê sông Đuống. Đây là nơi xuất phát của dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc, được nhiều người biết đến cả trong và ngoài nước, với những bức tranh đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Việt.

Để đến làng tranh Đông Hồ từ Hà Nội, du khách có thể theo Quốc lộ 5 hướng về Hải Phòng khoảng 15 km đến ga Phú Thụy, sau đó rẽ trái và tiếp tục đi thêm khoảng 18 km để đến phố Hồ, huyện lỵ của huyện Thuận Thành. Từ phố Hồ, rẽ trái và đi thêm khoảng 2 km nữa là sẽ đến làng Hồ. Một lộ trình khác là du khách đi hết phố Hồ, lên đê và rẽ trái đến điếm canh đê thứ hai, nơi có biển chỉ đường vào làng tranh Đông Hồ.

Làng tranh Đông Hồ không chỉ nổi tiếng với những bức tranh dân gian độc đáo mà còn là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn khám phá văn hóa và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Nguồn Gốc Và Lịch Sử Phát Triển Của Làng tranh Đông Hồ

Nguồn gốc và lịch sử phát triển của làng tranh đông hồ

Nằm yên bình bên bờ sông Đuống, làng Đông Hồ (hay làng Hồ, làng Mái) thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 33 km về phía Đông. Làng này có hơn 220 hộ dân, nổi tiếng với nghề làm tranh khắc gỗ dân gian và hàng mã, hơn là làm nông nghiệp. Nơi đây, phương pháp làm tranh cổ truyền vẫn được giữ gìn, là di sản văn hóa quý báu của vùng đất Kinh Bắc.

Tranh Đông Hồ bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XVI, được tạo ra bằng phương pháp thủ công tinh xảo. Không giống như tranh vẽ thông thường, tranh Đông Hồ được in từ các bản khắc gỗ. Để tạo ra những bản khắc hoàn mỹ, người nghệ nhân phải có kỹ năng cao và niềm đam mê nghệ thuật. Tranh Đông Hồ có khoảng 180 loại, chia thành 5 nhóm chính: tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh.

Làng Đông Hồ còn được biết đến qua những câu ca dao truyền miệng, miêu tả hình ảnh một làng quê thanh bình, nơi người dân sống hòa thuận, trọng danh dự và khí tiết, giữ gìn những giá trị đạo đức truyền thống. Cư dân làng Mái nổi tiếng với cách ứng xử lịch thiệp, kính trên nhường dưới, hiếm khi to tiếng cãi vã.

Giai đoạn hoàng kim của làng tranh Đông Hồ kéo dài từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1944, khi 17 dòng họ trong làng đều tham gia làm tranh. Tuy nhiên, chiến tranh chống Pháp đã gây tàn phá nghiêm trọng, khiến nghề làm tranh bị gián đoạn. Sau khi hòa bình lập lại và đất nước thống nhất, nghề làm tranh Đông Hồ mới được khôi phục dần dần.

Những thập kỷ gần đây, dưới sự ảnh hưởng của kinh tế thị trường và nghệ thuật phương Tây, dòng tranh Đông Hồ đang phải đối mặt với nguy cơ mai một. Thay đổi trong nhận thức và thị hiếu xã hội đã làm giảm sức hấp dẫn của tranh Đông Hồ.

Từ tháng Ba đến tháng Bảy hàng năm, làng Đông Hồ bận rộn với nghề làm hàng mã. Từ tháng Tám đến tháng Chạp, làng lại nhộn nhịp với mùa tranh Tết, các tấm giấy điệp đầy màu sắc được bày bán khắp nơi. Đặc biệt, làng có lễ hội vào rằm tháng Ba âm lịch, với các nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã và thi tranh, tạo nên không khí vui tươi, nhộn nhịp.

Dù đã trải qua nhiều biến cố, làng tranh Đông Hồ vẫn giữ được nét độc đáo và giá trị văn hóa đặc biệt, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Tranh Đông Hồ – Loại Tranh Của Truyền Thống

Tranh đông hồ Việt Nam

Trong số các dòng tranh dân gian Việt Nam, tranh Đông Hồ nổi bật nhờ sự gắn bó mật thiết với làng quê và đời sống bình dị của người nông thôn, tạo nên mối liên hệ gần gũi với cộng đồng người Việt.

Tranh Đông Hồ được in trên giấy Dó, một loại giấy thủ công được làm từ cây Dó mọc trên rừng, tương tự như vỏ cây Bạch đàn. Cây Dó được nghiền nhỏ, rây thành bột mịn và chế biến thành giấy. Trên nền giấy thường được quét một lớp hồ hoặc nhựa thông pha bột từ vỏ sò Điệp giã nhỏ, tạo ra độ sáng lấp lánh, nên còn gọi là giấy Điệp.

Người làng Hồ tận dụng nguyên liệu thiên nhiên để tạo nên những màu sắc truyền thống vừa tươi tắn vừa bền màu. Màu xanh da trời chiết xuất từ gỉ đồng, màu chàm từ lá cây Chàm ở Lạng Sơn, màu đỏ thắm từ vỏ cây Vang, màu đỏ son từ đá sỏi khai thác trên núi, màu vàng từ hoa Hòe hoặc rơm nếp, màu đen từ tro Xoan hoặc tro lá cây Tre, và màu trắng ngà từ vỏ ốc hoặc vỏ sò vùng biển Quảng Ninh. Những màu này không pha trộn, mỗi màu tương ứng với một bản khắc gỗ, nên tranh Đông Hồ thường chỉ giới hạn ở bốn màu.

Chủ đề của tranh Đông Hồ được lấy từ chính đời sống và sinh hoạt sản xuất hàng ngày, hoặc từ triết lý phồn thực, dung dị nhưng gần gũi với đời thường. Nhân vật trong truyền thuyết, cảnh đẹp của non sông đất nước, tranh chúc tụng hay những sinh hoạt thường ngày như “Vinh hoa phú quý”, “Hái dừa”, “Đánh ghen”, “Mục đồng thổi sáo”, “Đám cưới chuột”… đều chứa đựng triết lý nhân văn sâu sắc.

Tranh Đông Hồ không tuân theo các nguyên tắc về ánh sáng hay luật cận – viễn của tranh đương đại, với bố cục chặt chẽ về cơ thể học. Các nghệ nhân sáng tác tranh dân gian bằng lối vẽ đơn tuyến bình đồ, tạo nên dòng tranh mang nhiều tính ước lệ trong miêu tả và bố cục. Những nét vẽ ngây ngô, đơn giản nhưng đầy thú vị đưa người xem vào thế giới đầy màu sắc của cuộc sống.

Mỗi bức tranh Đông Hồ thường có vài chữ Hán hoặc chữ Nôm (trước đây) hoặc câu thơ lãng mạn, tình tứ (ngày nay), tạo thêm sức hút và giá trị nghệ thuật cho tranh. Tranh Đông Hồ không chỉ là tác phẩm nghệ thuật, mà còn là di sản văn hóa độc đáo, phản ánh sâu sắc đời sống và tâm hồn người Việt.

Các Tranh Đông Hồ Tiêu Biểu

Tranh đông hồ gà

Tranh đông hồ gà

Tranh đông hồ Đàn lợn âm dương

Tranh đông hồ Đàn lợn âm dương

Tranh đông hồ Chú bé ôm gà

Tranh đông hồ Chú bé ôm gà