Nguyễn Văn Tỵ (24 tháng 2 năm 1917 – 19 tháng 1 năm 1992), một hoạ sĩ người Việt Nam và ông giữ chức Tổng thư ký đầu tiên của Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Contents
- 1 Tiểu Sử Cuộc Đời Hoạ Sĩ Nguyễn Văn Tỵ – Tổng thư ký đầu tiên của Hội Mỹ Thuật Việt Nam
- 2 Sự Nghiệp Hội Hoạ Nguyễn Văn Tỵ
- 3 Giải Thưởng Của Hoạ Sĩ Nguyễn Văn Tỵ
- 4 Các Tác Phẩm Tiêu Biểu Của Nguyễn Văn Tỵ
- 4.1 Hai Cô Mường – khắc gỗ in trên Lụa (76×45) -1940
- 4.2 Nhà tranh gốc mít – sơn mài (67×105) – 1958
- 4.3 Du kích Bắc Sơn – sơn mài (86×121) – 1958
- 4.4 Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội – sơn mài (100×180) – 1960
- 4.5 Thiếu nữ trong vườn – sơn mài
- 4.6 Chợ Bờ – sơn mài (60×90) – 1984
- 4.7 Phong cảnh – sơn mài (150×240) – 1991
- 4.8 Nam Bắc một nhà – sơn mài (86×566) – 1961
- 4.9 Đêm Noel Hà Nội 1972 – sơn mài (100×150) – 1973
Tiểu Sử Cuộc Đời Hoạ Sĩ Nguyễn Văn Tỵ – Tổng thư ký đầu tiên của Hội Mỹ Thuật Việt Nam
Họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ được sinh ra ở đất Hà thành vào năm 1917. Ông tốt nghiệp Trường Mĩ thuật Đông Dương khoá XI (1936 – 1941) và là hội viên ngành hội họa Hội Mĩ thuật Việt Nam từ 1957.
Năm 1934 – 1935, ông theo học dự bị tại Trường Mỹ thuật Đông Dương.
Năm 1936, ông thi đỗ vào Trường Mỹ thuật Đông Dương và tham gia khóa học thứ 11 (1936 – 1941), cùng với các đồng khóa như Hoàng Tích Chù, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Trang Chước, Trần Văn Lắm…
Từ năm 1936 đến năm 1940, ông tham gia nhiều triển lãm của Hội Việt Nam khuyến khích Mỹ thuật và Công nghệ tổ chức (SADEAI), cũng như triển lãm của Hội hợp tác nghệ sĩ Đông Dương tại Việt Nam và ở nước ngoài như Paris (Pháp), Batavia (Indonesia), Bruxelles (Bỉ) và San Francisco (Mỹ).
Năm 1941, ông tốt nghiệp với danh hiệu hạng ưu và có ba tác phẩm gồm “Vịnh Hạ Long” – sơn mài, “Hội đền Chèm” – sơn mài, “Trăng lên” – khắc gỗ.
Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1942, ông tham gia chuyến đi vẽ tại Angkor – Campuchia và các tác phẩm sau đó được trưng bày tại trụ sở Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 1945 – 1946. Tháng 11 năm 1942, triển lãm riêng của hoạ sĩ lần đầu tiên được tổ chức tại trụ sở của nhóm FARTA (cái nôi nghệ thuật Việt Nam) với 32 tác phẩm sơn mài, lụa, và khắc gỗ. Năm 1943, ông tham dự triển lãm ở Tokyo, Nhật Bản với hai tác phẩm “Nghỉ ngơi” – sơn mài và “Hai cô gái Mường” – khắc gỗ. Ông cũng tham gia triển lãm cùng nhóm FARTA với ba tác phẩm về “Làng Mía ở Sơn Tây” (sơn dầu), “Nhân vật” và “Vịnh Hạ Long” (sơn mài).
Năm 1943 – 1944, ông tham gia trang trí sân khấu với đoàn kịch Thế Lữ ở Hà Nội.
Năm 1945, ông làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn hóa Cứu quốc, viết bài cho báo Tiền Phong, tổ chức triển lãm văn hóa và vẽ tranh cổ động.
Năm 1946, ông tham gia Ban Tổ chức triển lãm Mỹ thuật tháng Tám tại Nhà hát Lớn Hà Nội và có hai tác phẩm sơn mài “Chăn trâu” và “Nghỉ ngoài ruộng gặt”. Thời gian sau ông tham gia tổ chức và giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam vào cuối năm 1946, sau đó gia nhập vào mặt trận Nam tiến.
Sau chiến tranh, vào năm 1947, ông tham gia hoạt động ở miền Trung và làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn hóa kháng chiến Thanh Hóa và Liên khu IV. Năm 1948, ông thành lập xưởng họa Liên khu 4 và giảng dạy lịch sử mỹ thuật tại Phân trường Mỹ thuật Liên khu 4, cũng như biên tập và xuất bản tập san Mỹ thuật và Tạp chí Sáng tạo.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông thực hiện nhiều chuyến đi thực tế và vẽ tranh ở Chiến khu Việt Bắc (Bản Thi – Bắc Kạn, Đại Từ – Thái Nguyên), cũng như ở những làng kháng chiến như Cự Nẫm, Lệ Sơn, Cảnh Dương (Quảng Bình).
Năm 1953, ông tham gia đội giảm tô và cải cách ruộng đất ở Phú Thọ, và vẽ tranh tại chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Sau khi hoà bình lập lại, ông trở về Hà Nội và tham gia Ban tổ chức triển lãm chào mừng Thủ đô giải phóng tại Nhà hát Lớn Hà Nội do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức. Ông tiếp tục công tác tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam và tham gia hoạt động của Hội Văn nghệ Việt Nam và Hội Mỹ thuật Việt Nam. Ông còn giữ chức vụ Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Việt Nam đầu tiên từ 1957 đến 1958 và là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam (1957 – 1958). Năm 1983, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Hội Mỹ thuật Việt Nam, ông tiếp tục được bầu vào Ban chấp hành Hội và tham gia vào các Ủy ban và Hội đồng nghệ thuật của Hội. Ông mất vào ngày 19 tháng 1 năm 1992 tại Hà Nội.
Sự Nghiệp Hội Hoạ Nguyễn Văn Tỵ
Ngay từ khi còn học lớp dự bị tại Trường Mỹ thuật Đông Dương, Nguyễn Văn Tỵ bắt đầu sự nghiệp sáng tác với những tác phẩm sơn dầu và lụa như “Cảnh chùa và Tháp” và “Chân dung em gái”, được trưng bày tại các cửa hàng tranh. Ông đã tham dự nhiều triển lãm và đạt được nhiều giải thưởng.
Từ trước năm 1945, ông tập trung vào tranh lụa, sơn dầu và khắc gỗ. Sau đó, ông chuyển sang chuyên sâu trong tranh sơn mài, và hầu hết các tác phẩm nổi tiếng của ông đều sử dụng chất liệu này.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng ông vẫn liên tục sáng tác nhiều tác phẩm mới, bao gồm nhiều loại chất liệu như in đá, sơn mài, lụa… Các tác phẩm của ông như “Chiến luỹ ngã tư sở”, “Xe cứu thương”, “Cầu mới”, “Bộ đội giã gạo”, “Vùng biển Cảnh Dương”, “Lão chài” đã góp phần làm phong phú bức tranh nghệ thuật của dân tộc.
Trong những năm hoạt động ở miền Bắc (1954 – 1975), ông tiếp tục tạo ra nhiều tác phẩm mới, trưng bày tại nhiều triển lãm lớn. Các tác phẩm như “Nông dân kể khổ”, “Cấy ở Tây Bắc”, “Khu tự trị Việt Bắc”, “Hữu nghị”, “Xô viết Nghệ Tĩnh”, “Du kích Bắc Sơn”, “Mùa gặt ở Thanh Hoá” đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam.
Sau khi thống nhất đất nước, ông tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm mới, dựa trên những ký ức từ thời kháng chiến. Các tác phẩm như “Vịnh Hạ Long”, “Hạ Long”, “Đường làng”, “Chợ Bờ”, “Bên dòng Mê Kông”, “Hai cô Mường” là những minh chứng rõ ràng cho tài năng và sự đa dạng trong sáng tác của ông.
Ngoài sự sáng tác, ông cũng là một nhà lý luận, phê bình mỹ thuật với nhiều bài viết đã được đăng trên các báo. Ông cũng là một giáo viên có ảnh hưởng, đã giảng dạy và đào tạo nhiều thế hệ hoạ sĩ. Ông cũng đã soạn nhiều giáo trình phục vụ cho công tác giảng dạy.
Tóm lại, tác phẩm của Nguyễn Văn Tỵ không chỉ góp phần làm phong phú nền văn hóa nghệ thuật của Việt Nam mà còn là biểu tượng của sự sáng tạo và niềm đam mê không ngừng của một nghệ sĩ vĩ đại.
Giải Thưởng Của Hoạ Sĩ Nguyễn Văn Tỵ
- Huy chương Vàng triển lãm SEDEAI năm 1937
- Huy chương ngoại hạng triển lãm SEDEAI năm 1939
- Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ hoạ Leipzig 1965
- Huy chương Đồng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1995
- Huân chương kháng chiến hạng Nhì
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng I
- Huân chương Độc lập hạng Ba (12/1988)
- Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam, Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
- Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật (2001)